Lịch Sử Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgayà)
Giữa thời vua Asoka và triều đại Sunga do vua Pusvamitra thiết lập khoảng 185 trước TL, tất cả hiện vật tại Bồ đề đạo tràng (Bodhgayà) là cây bồ đề, tòa kim cương và một ao sen. Điều này có thể được xác nhận bằng cách tham khảo một bức phù điêu ở Bhàrhut vào TK thứ II trước TL về long vương (nàgarậịa) Elàpattra lễ bái đức Phật. Long vương (nàgaràja) Elàpattra cũng xuất hiện trong các sử thi anh hùng ca Mahàbhàrata và Ràmàyana; còn trong các kinh điển Phật giáo, vua rồng này quy y vào giáo pháp của đức Phật. Tác phẩm hình chữ nhật này trình bày cây bồ đề ở bên trái với cái bệ phía dưới (tòa kim cương). Trên bệ có thể thấy di tích của hoa tàn rải rác, điều ấy chứng tỏ rải hoa đã là một tập tục. (Ở Ấn Độ ngày nay, dân chúng cũng ném hoa để chúc phúc lành). Bên dưới là một hình người chấp tay lễ bái, có bức họa một con rồng năm đầu ở trên đầu người ấy (một đề tài thường thấy trong mỹ thuật Ấn giáo). Đây là long vương Elàpattra mang hình người.
Ở bên trái thấp hơn là một ao sen và các nửa phần trên của ba hình, vua rồng cùng hai cận thần. Cao hơn về phía bên phải, long vương hiện ra như một con rồng năm đầu trong ao sen vì đức Thích ca mâu ni đã ra lệnh bảo rồng xuất lộ nguyên hình. Trên cao là tượng thần hộ vệ Vajradhara (Kim cương) được thần Brahmà (Phạm thiên) đi kèm bên trái.
Ta học được hai điều từ bức phù điêu này. Thứ nhất, các tượng đức Phật không còn nữa. Thứ hai, dân bản địa thờ một thần rắn; việc này đi vào Ấn giáo thành sự thờ long thần và cũng được Phật giáo chấp nhận.
Một bia ký của vua Asoka nêu rõ là ngài đã đi chiêm bái cây bồ đề mười năm sau lễ đăng quang. Tương truyền cuộc hành hương này là nguồn gốc của điều mà vua Asoka gọi là các “cuộc du hành vì đạo pháp” (dharmayàtrà) của ngài. Các nguồn kinh điển Phật giáo đồng ý, nói rằng sau khi vua tham quan Kapilavastu, cố đô của bộ tộc Thích ca, vua đi đến cây bồ đề và ca tụng sự kiện Giác ngộ của đức Thích ca mâu ni. Vua đã cung dâng cây bồ đề một lễ vật gồm 100.000 đồng tiền vàng, truyền dựng một một ngôi tháp ở đó rồi ra đi. Các đệ tử Phật trong thời kỳ sau rất tôn trọng cuộc hành hương của vua Asoka đến chiêm bái cây bồ đề. Ngài thực hiện hai việc mà các tiên vương như Bimbisàra đã không làm được: Ngài kính lễ cây bồ đề bằng cách rảy nước hương lên cây và triệu tập một hội nghị mỗi năm năm một lần (pancavàrsika).
Các cổ tích kể rằng hoàng hậu Tisyaraksità của vua Asoka cố làm cho cây bồ đề chết đi, nhưng vua đã dùng nước cứu cây sống lại. Theo Đại Đường tây vực kỷ, hoàng hậu Tisyaraksità theo “tà giáo” và bí mật sai người chặt cây vào nửa đêm. Vua Asoka rất đau buồn và cầu nguyện hết lòng mong cây sống lại, rồi rảy sữa pha hương lên cây. Chẳng bao lâu cây sống lại và vua liền “bao quanh cây một bức tường gạch cao hơn ba mét; ngày nay vẫn còn thấy được tường này”. Tuy thế, vài thế kỷ sau, Sasànka, một vị vua của Bengal, lên ngôi vào khoảng trước năm 606, lại chặt cây để hủy diệt Phật giáo. Tương truyền vua Pumavarman, hậu duệ cuối cùng của vua Asoka, “đầy ưu phiền, đã tẩm gốc cây với sữa của ngàn con bò và trong vòng một đêm, cây lại hồi sinh”.
Theo Cao tăng Pháp Hiển truyện, hoàng hậu của vua Asoka chặt cây asvattha, và nó hồi sinh vì vua đã tắm sữa cho nó. Huyền Trang ghi lại ba văn bản về những người cố hủy diệt cây bồ đề: Đích thân vua Asoka, hoàng hậu Tisyaraksità của vua Asoka và vua Sasànka; trong mỗi trường hợp, gốc cây đều sống sót và cây mọc lại. Sự cố ý hủy diệt cây này chắc chắn là có thực, nhưng điều không rõ là bao nhiêu thế hệ cách biệt giữa cây hiện nay và cây ở thời đức Thích ca mâu ni đã an tọa.
Sau cuộc du hành của Mahinda, hoàng tử của vua Asoka đến Ceylon (Sri Lanka ngày nay) để thuyết giảng Phật giáo tại đó, các cung phi trong vương tộc Ceylon bày tỏ ước vọng sống đời tu hành và thỉnh cầu các Tỷ kheo ni đến đây để truyền giới cho họ. Công chúa Samghamitta, hoàng nữ của vua Asoka, đã dẫn phái đoàn gồm mười một Tỷ kheo ni, đem theo một nhánh ở phía nam của cây bồ đề mà vua Ceylon đã thỉnh cầu. Chính vua Asoka đã chặt cành cây một cách thần kỳ và đặt nó lên thuyền. Vua Ceylon đi đón phái đoàn tại cảng Jambukola và trồng cây ở đó. Cuối cùng tám chồi non mọc lên và các chồi này được trồng ở nhiều địa điểm.
Vào khoảng một thế kỷ sau triều đại vua Asoka, một lan can bằng sa thạch được dựng lên quanh cây bồ đề ở Bồ đề đạo tràng (Bodhgayà) và một tháp nhỏ được dựng lên. Kiểu lan can theo hình thức thông thường. Có bốn trụ đá vuông hay tám cạnh được chạm nổi hình nhiều người và vật ở mặt trước và sau, nhiều cổ tích (như Jàtaka) và hình tròn lớn chạm hoa sen. Các phần lồi ra ở mỗi bên trụ đá làm chỗ dựa cho các thanh đá nằm ngang, nối liền các trụ đá. Các thanh đá nằm ngang này cũng được chạm hình hoa sen và các hình tròn lớn chạm nổi khác. Các phiến đá ở trên đỉnh trụ được chạm nổi bên ngoài với một tràng hoa sen và bên trong với hình nhiều thú vật.
Trên các trụ đá có nhiều loại hình chạm nổi, gồm các hoa sen và thú vật thông thường. Cũng có một số hình chạm nổi cảnh quan từ cuộc đời đức Phật, nhưng theo phong tục thời ấy không phác họa đức Phật mang hình người. Cũng có các cảnh tượng từ Bộ chuyện Tiền thân (Jàtaka) và các biểu tượng của vòng chiêm tinh. Một hình vẽ thần mặt trời lái xe do bốn con ngựa kéo là bức họa nổi tiếng đầu tiên về vị thần này. Các hình chạm nồi bên ngoài lan can đều đơn giản, nhưng các hình sư tử, ngựa và voi có cánh cho thấy ảnh hưởng của Ba Tư. Cũng có một số dòng chữ ngắn, một trong đó nêu rõ là lan can được vua Indràgnimitra, trị vì ở TK thứ I trước TL, cung tặng:
Cái bệ (bodhimanda) dưới cây bồ đề được gọi là tòa kim cương và đó là vật được các đệ tử Phật tôn trọng đặc biệt. Khi Huyền Trang tham kiến vùng này, đã có niềm tin thịnh hành là không chỉ đức Phật Gotama mà còn nhiều đức Phật đã chứng đắc Giác ngộ ở đó. Ở Sri Lanka ngày nay các bệ cao dưới gốc cây bồ đề trong các sân chùa đều được gọi là tòa kim cương (bodhimanda) theo tên tòa chứng đắc Giác ngộ ở Bồ đề đạo tràng (Bodhgayà).
Lan can bao quanh tòa kim cương đã được phục chế nhiều lần. Có lẽ sự phục chế thật cần thiết vì một phần lan can đã bị mất hay vì cần mở rộng nhiều hơn nữa.
Ngôi tháp cuối cùng đã bị hủy hoại và chôn vùi trong cát. Khi vua Miến Điện phái ba triều thần đến khai quật các nền tháp bị chôn vùi ấy vào năm 1856, chính phủ Anh ở Ấn Độ không còn xem thường địa điểm này nữa. Vào năm 1863, một cái hào đã được một Thiếu tá Meade nào đó đào quanh tháp dưới sự giám sát của Đại tướng Alexander Cunningham. Vào năm 1878 Rajendralala Mitra xuất bản một báo cáo học thuật về Bồ đề đạo tràng (Bodhgayà) và năm sau Alexander Cunningham thanh tra địa điểm này. Năm 1880 Sir Asley Eden, Phó thống đốc Bengal, truyền lệnh cho J.D.Beglar tiến hành khai quật tại đó. Vào năm sau, J.D.Beglar không chỉ phát hiện tòa kim cương mà còn phục hồi di tích xá lợi của đức Phật được cất giữ tại đó. Các chi tiết về cuộc khai quật được ghi lại trong Mahàbodhi hay Đại tháp Bồ đề của Alexander Cunningham. Các sự trùng tu tổng quát sau cùng đựơc chính phủ Anh ở Ấn Độ đảm trách vào năm 1880-81.
Ngôi Đại tháp ở Bồ đề đạo tràng (Bodhgayà) mà ta thấy ngày nay hình như vào thời đại Maurya (317 – khoảng 180 trước TL) đã được gọi là “vương tháp” (ràjapàsàdàcetika = ràjapràsàdàcaityaka). Mãi cho đến gần đây, nhiều đám đông vô gia cư đóng vai hướng dẫn viên của du khách hành hương đã tụ tập quanh bảo tháp và gây ô uế nơi ấy. Bây giờ tháp đang được một ủy ban quản lý quan tâm chăm sóc và bảo tồn. Theo huyền thoại và ký sự của Huyền Trang, vua Asoka đã dựng một bức tường đá (vàrà) quanh cây bồ đề nhưng nay bức tường đá đã biến mất.
Gần đó là một lan can bằng đá, và vì ký tự của đòng chữ khắc trên đó hầu như trùng hợp với bia ký thời vua Asoka, người ta tin rằng các bức tường hiện nay có nguồn gốc từ một bức tường được xây vào thời vua Asoka. Các tháp nhỏ màu trắng kế cận ngôi Đại Tháp theo kiến trúc hiện kim, tái tạo các đặc điểm chính của ngôi tháp lớn. Vì cả Huyền Trang và Pháp Hiển đều không bình luận gì về phiến đá in dấu chân Phật gần cây bồ đề và phía sau (nghĩa là phía tây) ngôi Đại Tháp, nên khó phỏng đoán niên đại của nó.
Khi Phật giáo suy tàn, Bồ đề đạo tràng (Bodhgayà) trở thành thánh địa của tín đồ Ấn Độ giáo, thuộc quyền sở hữu của các hàng đạo sĩ Ấn giáo cao cấp gọi là mahanta. Từ 1953 địa điểm này đã được một ủy ban của chính phủ quản lý. Gayà cách đó mười lăm cây số, từ lâu đã là thánh địa quan trọng của Ẩn Độ giáo, nhưng đối với phần đông dân Ấn Độ, Bồ đề đạo tràng (Bodhgayà) chỉ là một địa điểm du lịch. Khách hành hương tham quan Gayà để cử hành tế lễ cúng bái tổ tiên trong mười lăm ngày (pitrbhaksà). Bình thường Gayà có dân số chừng 300.000 người, nhưng vào thời tế lễ, tương truyền tăng lên đến 900.000 người. Nhiều thần linh được thờ cúng với thần Vishnu là vị thần được dân chúng ngưỡng mộ nhất. Khách hành hương lũ lượt đến Đại Tháp Vishnupada ở trung tâm thành phố và làm tế lễ. Gayà có một số hồ nước dành cho lễ tắm (rửa tội). Vài hồ hình vuông với tầng cấp ở ba phía. Không hồ nào có tầng cấp ở cả bốn phía. Các đệ tử Phật trong thời kỳ tối cổ đã phê bình lễ tắm ở Gayà không có công đức gì cả.
Trích từ sách “Đức Phật Gotama” của tác giả Hajime Nakamura do Trần Phương Lan dịch.